LÀM CHỦ CĂN LƯỠI.

http://phapbao.org/wp-content/uploads/2012/08/btt.jpg
     Lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, lạt, chua, ngọt. Tất cả cái đó, cái nào hợp với lưỡi của mình thì ta thích, cái nào không hợp với lưỡi của mình thì ta không thích. Do ưa thích, hay không hợp khẩu vị, mà chúng ta phải chịu khổ từ ngày này sang tháng khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy những món gì ta cho là thích hợp với lưỡi của mình thì bữa đó mình cảm thấy vui tươi, phấn khởi, ăn uống ngon lành.

    Ngược lại, những món nào mình cảm thấy trái với sở thích của mình thì sinh bực dọc, cau có, khó chịu, do đó mà phải chạy đi tìm kiếm chỗ khác để cho vừa với miệng của mình. Chính vì vậy, mà ta hay bực bội gia đình, người thân một cách vô lý, nhất là những người nặng về ăn uống.  

    Lưỡi của chúng ta khi ăn món ngon vừa miệng, thì mình thấy thích và muốn ăn hoài, khi ăn món không hợp với khẩu vị thì sinh bực bội, cảm thấy khó chịu. Thích món ngon mà không được ăn, ghét món dở mà bị ăn hoài, đâm ra phiền muộn, khổ đau. Vậy cái lưỡi thích ngon, chán dở đó là đứa giặc thứ tư.

     Nhớ lại quá khứ, dĩ dãng ngày xưa, khi chúng tôi chưa đi tu, mỗi khi tới giờ cơm, mở nồi thức ăn ra, không có những món khoái khẩu là tôi khua nắp vung lớn lên, rồi bỏ ra đi. Mẹ tôi nghe thấy vậy lắc đầu mà rơi nước mắt, không dám nói lời nào, sợ tôi buồn. Quả thật, “miếng ăn là miếng tồi tàn, không ăn một miếng lộn gan trên đầu”. May mà chúng tôi chỉ ăn chực của mẹ thôi mà còn vậy, tiền làm được thì tôi bỏ túi xài riêng. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy nhớ thương mẹ vô cùng, nhưng mẹ đã sớm ra đi trong cơn bạo bệnh còn đâu.

    Tôi ngày xưa tán tận lương tâm với mẹ rất nhiều, nhưng mẹ tôi vẫn một lòng thương con mà chịu đắng cay, khổ sở trăm bề. Một chút dĩ dãng đau buồn, con xin nhắc lại, mong mẹ thứ tha cho con trẻ quá dại khờ.

    Người biết tu bao giờ cũng tập cho lưỡi của mình đối với các vị mặn lạt, chua ngọt, đắng cay, vị nào cũng phải bình thường đối với lưỡi. Ta tu làm sao cốt cho thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng là quí rồi; còn tất cả cái ngon dở của thức ăn, chẳng qua là phương tiện để nuôi sống bản thân, để mình có đủ sức khỏe, tâm thanh tịnh, sáng suốt mà tu hành, đạt được tự tại, giải thoát.

    Căn lưỡi này đóng vai trò quan trọng nhất trong con người chúng ta, vì hằng ngày nó có nhiệm vụ đưa thức ăn, thức uống vào để có đủ sức khỏe, năng lực làm việc mà duy trì mạng sống; nhưng con người do chấp ngã, thấy thân này là thật, nên cứ một bề tẩm bổ, đưa vào các thức ăn mình cho là ngon.

   Nhiệm vụ của lưỡi là nếm các vị, nhưng ngược đời thay, sở thích của mỗi người khác nhau, nên có người thích ngọt, có người thích mặn. Hai người cùng ngồi chung mâm thì sinh ra rắc rối, nên có thể dẫn đến cãi vả, bất đồng quan điểm với nhau, từ đó sinh ra oán giận, thù hằn cũng chỉ vì miếng ăn, thức uống. 

   Món ăn ngon ai cũng ưa thích và muốn ăn hoài, có những món ta biết ăn vào sanh bệnh, nhưng do không làm chủ được cái lưỡi thích nếm vị ngon mà hại cho cái thân. Nói chi xa, ngay nơi quí phật tử mình đây ai cũng biết ăn mặn là tạo tội, ăn chay là tốt, vậy mà mấy ai làm chủ được cái miệng thích ăn thịt cá của mình đâu. Rồi cho đến quý thầy cô, tuy ăn chay nhưng lại khoái ăn đồ giả mặn, vì nó kích thích cái lưỡi của mình, cho đến có người thích ăn cay, ăn ớt. Bữa ăn nào mà không có ớt là khổ sở vô cùng, không thể ăn được.

     Rồi có người ghiền rượu, bữa nào không có nó thì ngủ không được, nhưng khi có chút đỉnh thì về kiếm chuyện vợ con, lớn tiếng hành hạ, đánh đập. Thức ăn uống dù ngon cách mấy, nhưng khi nuốt vô khỏi cổ, qua khỏi cái lưỡi rồi, lỡ ói ra thì mùi vị chua lè, thấy phát ớn. Vậy mà chỉ vì ăn ngon một chút, ta nỡ nhẫn tâm giết hại bao nhiêu con vật để bồi bổ cho tấm thân này. Chúng tôi còn nhớ, trong dân gian có câu, “miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”, nghe thật là thấm thía làm sao, người đời cũng vì miếng ăn mà sẵn sàng tranh giành, thậm chí dẫn đến giết hại.

   Con người ta khổ là do sự chấp trước, dính mắc vào đó, đôi khi vì tham muốn quá đáng mà không biết cách kìm chế, nên để cho bệnh béo phì tấn công. Phụ nữ ngày nay mắc chứng bệnh này hơi nhiều. Mục đích của sự ăn uống là để nuôi sống thân này có sức khỏe tốt, để ta làm việc, đóng góp, phục vụ gia đình và xã hội.

    Xã hội văn minh, tiến bộ quá nhanh, tiện nghi vật chất hiện đại, làm con người không biết cách làm chủ bản thân, vì không có thời gian nghiền ngẫm, suy tư đạo lý Thánh hiền. Từ đó, khổ đau bắt đầu có mặt, vì ta cứ mải mê chạy theo công danh, sự nghiệp mà quên mất chính mình.

     Lưỡi ngoài việc ăn uống, nếm vị, còn có chức năng nói chuyện trong giao tiếp xã hội. Lời nói rất quan trọng, một lời nói tốt đẹp giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc; ngược lại, làm cho tan nhà nát cửa, con mất cha, vợ mất chồng, anh em xa lìa cũng chính vì lời gian dối, hại người.

    Ngày xưa, một người giàu có sai đầy tớ làm thịt heo và căn dặn kỹ càng, “nhà ngươi nhớ, sau khi làm heo xong phải để dành lại cho ta cái gì ngon nhất”.

    Người đầy tớ vâng lời, chừa lại cho ông chủ cái lưỡi.

    Vài ngày sau, ông chủ lại sai người đầy tớ mần tiếp con heo khác, nhưng lại dặn, “hôm nay, nhà ngươi để dành lại cho ta cái gì dở nhất trong con heo”.

    Người đầy tớ sau khi làm heo xong cũng chừa lại cái lưỡi như lần trước, rồi dâng lên cho chủ. Ông nhà giàu thấy vậy bực quá, liền chửi mắng tên đầy tớ, “bộ mầy điên hay sao, ngon cũng cái lưỡi, dở cũng cái lưỡi là ý gì?”

   Người đầy tớ thưa, “dạ, kính bẩm ông chủ, xin Ngài hãy mở lượng khoan dung mà suy xét lại kỹ càng. Khi chúng ta đối xử tốt với ai thì ta nói lời từ ái, dịu dàng, dễ nghe, làm cho người cảm mến, yêu thích. Khi ta thù ghét ai thì ta dùng lời nói ác độc, mắng nhiếc, chửi bới, nếu không thì cũng nói móc, nói méo, nói nặng, nói nhẹ, làm cho người phiền muộn, khổ đau. Cho nên, khi ăn ngon hay dở cũng từ cái lưỡi mà ra. Chính vì vậy, trước sau gì con cũng dâng lên ông chủ cái lưỡi là có nguyên nhân, kính mong ông chủ bình tâm mà suy xét lại”.

   Ông nhà giàu ngồi lại ngẫm nghĩ một hồi lâu, mới thấy lời nói người đầy tớ thật là chí lý, nên ông ta gật đầu khen ngợi, “phải, phải nhà ngươi nói đúng lắm. Ta không ngờ có một người giúp việc như chú mày, chú mày quả thật là người có hiểu biết và nhận định sâu sắc như thế”.

    Kể từ đó, ông chủ cho người giúp việc phụ tá và tư vấn vào những công việc chính đáng trong gia đình. Lưỡi có chức năng nếm các vị mặn ngọt, chua cay, chát đắng, để giúp con người biết được sự ngon hay dở, ngoài ra còn hỗ trợ cho miệng nói năng trong giao tiếp, sinh hoạt làm ăn, chính vì vậy mà anh đầy tớ nói ngon hay dở cũng chính là cái lưỡi.

    Ông nhà giàu nọ thật có phước báo vô lượng, vô biên, nên mới có được người giúp việc hiểu biết và sáng suốt như thế, do đó anh đã cảm hoá được chủ. Nhờ vậy, ông mới hiểu ra, đạo lý Thánh hiền đều bắt đầu từ ý nghĩ rồi phát sinh ra lời nói, mới dẫn đến hành động tốt hay xấu.

    Học chuyện xưa, chiêm nghiệm lời dạy cổ nhân, luôn giúp chúng ta có một nhận thức sáng suốt để thấu rõ kiếp người, được biểu đạt bằng miệng lưỡi, và thể hiện bằng lời nói có sức thuyết phục lòng người. Một cái lưỡi này mà làm nên lịch sử, giúp mọi người sống bình yên, hạnh phúc, nhờ ta biết vận dụng lời hay, ý đẹp trong cuộc sống hằng ngày.

    Chúng ta muốn làm chủ bản thân để sống đời an vui, giải thoát, thì từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý đều phải biết quán chiếu với cặp mắt duyên khởi, vô thường, vô ngã. Nhờ vậy, ta bớt tham chấp mà có cơ hội gần với Niết Bàn.

    Trong cuộc sống, từ cha mẹ cho đến anh chị em, họ hàng thân thuộc, vợ chồng con cái, thầy tổ, bạn bè, ai cũng cần có tình yêu thương qua lời nói. Cho nên, lời nói rất quan trọng trong đối nhân xử thế, một lời nói chân thành có thể giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc, một lời nói giả dối làm cho con người oán giận, thù hằn.

    Chúng ta có thể học nói trong ba năm, nhưng muốn đem lời nói vận dụng vào cuộc sống cho được êm thắm, hài hoà, nhiều khi hành cả đời cũng chưa xong. Lưỡi đóng vai trò rất quan trọng trong việc ăn uống, biết phân biệt ngon dở để nuôi cơ thể và kết hợp hài hoà với miệng mà nói năng, giao tiếp. Lưỡi kết hợp với miệng phát ra lời nói trong đối nhân xử thế, giúp nhân loại nương vào nhau mà phát triển về mọi mặt, công việc được tốt đẹp, hay rơi vào chiều hướng xấu, đều dựa vào lời nói. Cho nên, tục ngữ có câu, “lưỡi không xương nhiều đường lắc léo”. Nghĩa là cái lưỡi không xương, nên con người muốn nói kiểu nào cũng được, nói đúng, nói sai gì thì cũng từ cái lưỡi.

    Có những lời nói khi thốt ra làm tan nhà nát cửa, nước mất, nhà tan, tổn hại dân chúng; nhưng cũng có những lời nói làm cho gia đình sống an vui, hạnh phúc, biết sống yêu thương với nhau bằng tình người trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi nói ta cần phải uốn lưỡi bảy lần, để không nói ra những lời vô nghĩa, có hại cho mọi người. Nói tóm lại, những gì ta nói làm    Trong truyền thống Phật giáo Á Đông, hình tượng đức Di Lặc là một vị Bồ Tát ăn mặc xuề xoà, ngồi phệt dưới đất, mập mạp, bụng phệ, gương mặt phúc hậu, sống đời đơn giản, bằng những hình ảnh biểu trưng qua ý nghĩa tự tại, an lạc và giải thoát. Đặc biệt Bồ Tát Di Lặc có tấm lòng nhân ái, nên miệng cười thật rộng, cười hả hê, cười hết mình, nhìn thẳng người đối diện như muốn trao gửi hết niềm yêu thương trọn vẹn cho người ấy bằng tất cả trái tim hiểu biết. 

    Lỗ tai chúng ta thích nghe lời khen, lời nịnh hót, lời tâng bốc và không chịu bị ai chê bai, chỉ trích, nhất là trước mặt mọi người. Khi nghe lời khen, trong lòng chúng ta cảm thấy phấn khởi, vui mừng, bị dèm pha, chê bai thì mình sinh phiền muộn, khổ đau, đó là đứa giặc thứ hai. Khi ta vui mừng, thích thú là háo danh, khi phiền não là bệnh hoạn, nó cướp mất đi công đức lành của chúng ta.

    Điểm này khác với vẻ mặt trang nghiêm, nụ cười nhẹ nhàng, thanh thoát và đôi mắt trầm tư của chư Phật hay các vị Bồ Tát khác. Lại nữa, có những hình tượng, chúng ta thấy sáu đứa trẻ đeo bám trên thân ngài, đứa móc mắt, đứa bóp mũi, đứa rờ miệng, đứa nhéo tai, đứa gãi rún, đứa leo lên đầu, mà ngài vẫn bình thản, an nhiên, tự tại, không hề có chút tâm tư buồn khổ nào.

    Nhìn bằng tâm thanh tịnh, sáng suốt, chúng ta sẽ hiểu, tôn tượng Bồ Tát Di Lặc là biểu trưng cho những con người đã thật sự bình yên, hạnh phúc, dấn thân đi vào đời để hóa độ tất cả chúng sinh, vẫn thấy nghe, hay biết mà không bị dòng đời cuốn trôi làm ô nhiễm.

    Sáu đứa trẻ nghịch ngợm trên thân Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho "sáu đứa giặc" chuyên hành hung, cướp phá, đánh mắng gây phiền lụy, khổ đau cho người không biết tu theo lời Phật dạy. Vì chúng ta một mặt muốn cầu giác ngộ, giải thoát, một mặt mình lại gây tạo phiền não, khổ đau. Ta thật mâu thuẫn và si mê, nên bị sáu tên giặc này làm ngăn chặn sự tiến tu đạt đến tự tại, giải thoát.

    Mỗi đứa bé soi lỗ tai, móc lỗ mũi của Ngài, mà Bồ Tát vẫn cười vui vẻ, không tỏ thái độ bực dọc, hờn dỗi, không cảm thấy buồn bã, hay dính mắc một điều gì. Hình ảnh đó luôn nhắc nhở hàng Phật tử chúng ta hãy ý thức việc tu hành của chính mình qua biểu tượng an lạc, tự tại của đức Phật Di Lặc trong cuộc đời, ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, chớ có tìm cầu đâu xa.

   Và cũng không một ai có quyền ban phước, giáng họa, mà chính ta là thượng đế tối cao, chính ta quyết định cuộc đời mình bằng những ý nghĩ, lời nói, rồi hành động qua sáu giác quan mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà được thành tựu an lạc, giải thoát ngay tại đây và bây giờ. Bồ Tát Di Lặc sẽ ra đời khi thế gian này không còn ai biết đến điều hay lẽ phải nữa, để hóa độ tất cả chúng sinh.

    Còn chúng ta thì sao? Nếu lỡ ai đó tự nhiên móc lỗ tai của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu ai móc lỗ tai của mình thì ta cũng nói nặng nhẹ hay chửi bới, nếu không đánh đá, đánh đập, thì cũng la làng lên để mọi người đều biết, có phải vậy không?

    Tương tự như thế, cho đến các căn khác cũng bị dao động mạnh mẽ, tùy theo thói quen huân tập nhiều hay ít của mỗi người. Như vậy, đối với sáu căn của chúng ta, khi có ai động tới thì mình không chịu được, nên phải nổi tam bành lục tặc, làm ảnh hưởng lớn đến người khác. Chỗ không chịu nổi đó làm cho ta bị chướng ngại trên đường tu, nên không được an lạc, giải thoát.

    Sáu đứa bé đó theo danh từ chuyên môn gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp của, phá nhà. Nó phá phách ngang tàng, chẳng biết nể sợ một ai. Nhưng thật tế, nó có phá mình hay không? Nếu ta bị móc lỗ tai mà mình cảm thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại gì.

    Hiện tại, chúng ta có thể nói gần như một 100% đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài, bởi những lời khen, tiếng chê. Những lời nói chát chúa, hằn học, chửi mắng, dèm pha, nguyền rủa, tất cả những thứ đó tới lỗ tai mình mà ta coi như gió thổi mây bay thì có gì làm cho ta hư hại không?

    Nếu ta thấy đó là lời nói oán giận, thù hằn, lời nói chất chứa thêm hận thù, mỉa mai, sâu độc, hiểm ác, thì lúc đó mình có bình tĩnh được không? Tùy theo sự tu tập của mình mà ta phát sinh bực bội, tức tối nhiều hay ít, vì những lời nói khó nghe như vậy.

   Khi nghe những lời nói như thế, ta phải thương người đó nhiều hơn, vì tâm họ đã bị vô minh che lấp, họ đang bị những tâm niệm đen tối dằn xé trong lòng; còn khi nghe nó mà mình chỉ biết, tất cả mọi âm thanh đều thường sinh diệt theo thời gian, thì mình có thể an nhiên tự tại.

    Vì vậy, người tu chúng ta cần phải biết rõ gốc rễ của bất hạnh, khổ đau là do dính mắc, chạy theo sáu trần là sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Tai ta nghe những tiếng khen chê, được mất, hơn thua, phải quấy, hoặc những lời ngọt ngào, êm ái, nhẹ nhàng, mình chỉ nghe như gió thoảng mây bay vì biết rằng lời nói không thật.

   Chính bản thân mình do bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp nên chúng không thật có, huống chi là tiếng nói bên ngoài. Tâm ta không động, đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai của mình rồi.        

    Chúng ta thấy mọi người thờ Bồ Tát Di Lặc với vẻ mập mạp, cười toe toét, cười rạng rỡ, cười khoan thai, cười hả hê. Có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ, đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai, đứa thì móc con mắt, mà Ngài vẫn cứ cười hề hề, cười hả hê, cười khoan khoái, không phiền muộn một ai hoặc bị chướng ngại gì hết.

    Ta bây giờ nhìn thấy hình ảnh đức Phật Di Lặc lúc nào cũng mập mạp, cũng vui tươi, nên mọi người gọi Ngài là biểu tượng cho con người hạnh phúc hiện tại và mai sau. Cái dáng vẻ mập mạp, vui tươi, lành mạnh đó là biểu trưng do điều gì? Chính nhờ trong lòng Bồ Tát không có những đám mây đen tham lam, sân giận, si mê che lấp nên mặt trời trí tuệ sáng soi, vì vậy mà sáu đứa bé dù có móc tai, móc mũi, móc mắt, nhưng Ngài vẫn thấy bình an, hạnh phúc.

    Còn chúng ta khi thấy hình ảnh đẹp thì dính mắc vào đó, nếu không vừa ý thì trán mình nhăn lại, mặt mày cau có, mắt đỏ lên, trông chẳng khác nào bọn đầu trâu, mặt ngựa. Nếu lúc đó ta nhìn vào trong gương, sẽ thấy mày mặt thật của mình chẳng khác nào ma quỷ.

    Thế cho nên, ta biết tu nơi sáu căn rồi thì tự nhiên mình cảm nhận được bình yên, hạnh phúc. Dù ta chưa thành Phật, nhưng hiện đời mình cũng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, càng tu mình càng lạc quan, yêu đời hơn.

    Do đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết luân hồi sanh tử, đạt được an lạc, giải thoát. Đó là gốc của sự tu hành đối với hàng xuất gia. Còn nếu chúng ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử, thì sự tu đó không có hiệu quả thiết thực. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ, uổng công gia đình, người thân mong mỏi, đợi chờ, uổng công đất nước bảo vệ, gìn giữ an ninh, để ta có thời gian an ổn tu hành.

      Trong kinh Phật dạy, “này các thiện nam, tín nữ, có người thích thú đi nghe âm thanh, nhạc điệu, hoặc nghe pháp của các thầy tà, bạn ác, rồi vui vẻ bắt chước làm theo. Như lai cho rằng, đây không phải là những cái đáng nên nghe, vì sự nghe này mang tính phàm phu, không liên hệ đến mục đích xa lìa đắm nhiễm, không đạt được an lạc, giải thoát.

    Người Phật tử chân chính biết tìm kiếm và thích nghe chánh pháp của Như Lai, qua sự chỉ dạy của chư Tăng với lòng tin sâu nhân quả. Ai học hỏi, tu tập sự nghe này mới thật sự có lợi ích và cần thiết. Vì nó có thể giúp mọi người từ phàm phu trở thành hiền Thánh mà biết cách vượt qua khổ đau của cuộc đời”.

    Qua pháp thoại ngắn trên, Phật dạy ta không nên đi nghe những âm thanh nhạc điệu của thế gian, vì cái nghe này sẽ làm cho tai ta dính vào đó mà đắm say, mê muội. Cho nên, khi ta nghe những lời nói hằn học, lớn tiếng, hoặc những âm thanh không phù hợp sở thích của mình, thì sinh tâm hờn dỗi, tức tối, bực bội.

    Người quen và đam mê các loại nhạc sẽ dễ dàng bị âm thanh không vừa lòng thích ý làm phiền muộn, khổ đau. Thậm chí, có những người say mê đến đỗi, nếu trong ngày ấy mà không nghe được tiếng hát của ca sĩ đó, thì cảm thấy trong người ray rức, khó chịu.

    Chúng ta muốn tu cho có hiệu quả, lợi ích thiết thực trong cuộc đời, không uổng cơm của tất cả mọi người, thì mình phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sinh tử luân hồi, ngay nơi tai đừng cho nó dính, đừng cho nó nhiễm, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

     Vậy sáu căn từ đâu mà ra? Nó có sẵn nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình. Ta chỉ cần đừng để cho nó dính mắc với trần cảnh là đã khéo tu.

    Còn nếu chúng ta ăn chay đơn giản, đạm bạc, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền nhiều, mà ai động tới liền nổi giận, hờn mát trong lòng, cái gì đẹp thì ưa thích, bám víu vào đó, chúng ta tu như vậy có kết quả không? 

    Cũng vậy, mũi ngửi mùi hôi nhiều hơn mùi thơm, lưỡi nếm vị dở nhiều hơn vị ngon, mắt thấy sắc xấu nhiều hơn sắc tốt, thân xúc chạm vật bất như ý nhiều hơn như ý. Kiểm lại ta thấy cuộc sống của mình bất hạnh nhiều hơn hạnh phúc. Người đời cho rằng, hạnh phúc là do mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý tiếp xúc với trần cảnh, sinh ra cảm thọ vui, rồi bám víu vào đó mà thích thú, ngược lại thì giận hờn mà sinh ra đau khổ. Tất cả những cái mà mọi người cho rằng là hạnh phúc chỉ có giá trị tạm thời, không lâu dài, bền chắc.  

     Mắt thấy sắc đẹp, lòng luyến ái, mê thích, tai nghe tiếng chê dở, khen hay, rồi sinh bực bội, như vậy là ta chưa thật sự gỡ được tâm dính với các trần cảnh bên ngoài. Nếu tu mà chưa chuyển hóa những tâm tư tham đắm, phiền muộn, thì thử hỏi chúng ta làm sao có đủ khả năng giải thoát luân hồi sanh tử. Chính vì vậy, trên đường tu, chúng ta phải cố gắng nỗ lực, làm sao gặp cảnh vui buồn, được mất mà mình vẫn an nhiên, tự tại.

     Như vậy, con đường để trở về giác ngộ, tự tại, giải thoát, và con đường sanh tử luân hồi cũng ngay nơi sáu căn này, không có khác. Nếu sáu căn chạy theo sáu trần, gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là biết quay trở về Bồ Đề Niết bàn, chẳng phải tìm cầu đâu xa. Bồ Tát Di lặc là một vị Phật sẽ thành tựu trong tương lai nhờ tu pháp gì? Như chúng ta đã thấy, tu là biết quay lại chính mình, điều phục từ ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không cho nó dính mắc vào trần cảnh.

    Hằng ngày, lỗ tai chúng ta thường được nghe những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, hay cũng có khi nghe lời nói chát chúa, hằn học, thô bỉ, cộc cằn ? Khi thì ta được khen, có lúc cũng lại bị chê. Song, ở đời chê nhiều hơn khen. Như vậy, chúng ta muốn được hưởng những âm thanh vừa với lỗ tai thì rất ít, mà trái với lỗ tai thì quá nhiều. Tối ngày ta chỉ chạy theo lời khen, tiếng chê, nên phiền não cứ dấy khởi hoài, khiến ta bất an.

     Như Phật là bậc toàn giác mà có khi nào được khen hoàn toàn đâu? Có khi Ngài vẫn bị người ta chê hoặc chửi mắng. Như có ông Bà La Môn nọ, vì tâm ganh ghét, tật đố, nên cứ theo sau chửi Phật hoài. Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không nói năng gì, hay tỏ thái độ bất bình, giận dỗi.

    Ông Bà La Môn tức quá, chạy lên phía trước, chặn Phật lại hỏi, “này Cồ Đàm, ông có điếc không?” Phật bảo, “ta vẫn nghe rõ ràng tất cả mọi âm thanh xa gần, lớn nhỏ, nhưng ta nghe chỉ là nghe bằng tất cả tấm lòng từ ái và bao dung”.

    Chúng ta thấy đó, trên thế gian này chưa có ai hoàn toàn được khen hay bị chê? Hễ có khen thì liền bị chê, khi khen thì vui tươi là hạnh phúc, lúc chê thì buồn khổ là bất hạnh. Phật nhờ biết cách nhiếp phục sáu căn, nên khi nghe ai chửi mắng Ngài vẫn an nhiên, tự tại, sống với cái hằng biết của mình, nương nơi tai gọi là tánh nghe. 

    Bồ Tát Quán Thế  Âm nhờ tu hạnh lắng nghe mà thông hết ba cõi, sáu đường, tùy duyên hóa độ chúng sinh không thể nghĩ bàn. Bồ Tát lắng nghe thật sâu tiếng nói của tha nhân, rồi tùy theo khả năng và sự hiểu biết của mọi người mà tìm cách chia vui sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống.

   Nói tóm lại, người Phật tử chân chính phải biết điều phục chính mình từ hai căn mắt và tai là chính yếu. Mắt và tai là hai căn ta phải tiếp xúc hằng ngày, khi ta thấy mọi hình ảnh, sự vật, cùng với âm thanh lớn nhỏ qua sự giao tế trong cuộc sống.

    Thấy và nghe là hai chức năng quan trọng giúp cho ta an lạc, hạnh phúc hoặc phiền muộn, khổ đau. Thấy mà chạy theo, nghe mà phân biệt, so đo, tính toán, làm cho ta dính mắc vào đó, nên có thích thú và ưa ghét. Ta thấy, nghe mà không luyến ái, không chê trách, không ghét bỏ, thì ta vẫn là ta, nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu? Lỗi lầm là chính lòng luyến ái bám víu của mình.

     Âm thanh có tác động rất quan trọng đến tinh thần con người, thanh thiếu niên bây giờ đa số thích nghe những bài nhạc kích động, nghe nhạc trẻ, nhạc tình cảm, làm cho mình chạy theo âm thanh thích hợp. Ai nghe nhiều như thế sẽ dễ làm bản thân mất tự chủ về căn tai, nghe những bài nhạc như vậy thì tự nhiên con người cũng muốn phá phách, nổi loạn, hoặc bị ru ngủ bởi tình cảm ướt át.

      Quí Phật tử thường xuyên đi chùa, nghe tiếng chuông mõ, tụng kinh thì thấy lòng mình an lạc, nhẹ nhàng, như trút hết gánh nặng mình đang quảy trên vai. Còn đối với những người không có niềm tin về nhân quả, họ chỉ thích bon chen, tranh đua, giành giựt, nên khi nghe tiếng mõ, lời kinh, chỉ thấy bồn chồn, khó chịu, vì tâm họ đang bị âm thanh, sắc tướng của pháp trần chi phối.

       Ngày xưa, biết bao triều vua sụp đổ cũng vì nghe lời nịnh hót, tâu dối của bọn gian thần. Ngày nay, do sự phát triển của xã hội quá nhanh làm con người cũng bị ảnh hưởng rất lớn về mọi phương diện, nhất là những âm thanh ru ngủ bằng lời quảng cáo dối vì lợi nhuận kinh tế. Thanh thiếu niên ở trong môi trường nào sẽ bị tác động bởi lời nói của môi trường đó, nếu ở nhà cha mẹ hay tranh cãi, gây lộn, nói những lời cộc cằn, hở ra là chửi thề, thì con cái cũng sẽ bị nhiễm những lời ấy, do chúng chưa có ý thức làm chủ được căn tai của mình.

      Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh, những lời hằn học, ác độc, khích bác lẫn nhau. Cho nên, ta phải biết huân tập vào mình những âm thanh tốt đẹp và không chất chứa những âm thanh hỗn tạp thì tinh thần mới an ổn, nhẹ nhàng, mà nói và làm vì lợi ích cho mình và người.

LÀM CHỦ CĂN MŨI

    Lỗ mũi của chúng ta rất nhạy cảm với hương thơm và mùi hôi, ta đừng để dính mắc vào hai vấn đề đó, coi như luồng khói vừa qua mũi rồi mất, không có gì hết, không có gì là thật thì có gì làm cho mình dính mắc, đắm nhiễm. Ngược lại, tại chúng ta si mê, nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó, tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, rồi lại tự làm thành chướng ngại. Nếu mình ngửi mùi hôi-thơm, vẫn coi như gió thoảng, mây bay; mình hay thường xuyên quán chiếu tất cả các mùi vị, thơm biết thơm, hôi biết hôi, và thơm-hôi bản chất của nó không thật.  

    Đến cái ngửi, thông thường, hương thơm thì mũi ai cũng ghi nhận thơm, mùi hôi thì mũi ai cũng biết hôi. Tuy nhiên, có cái người này khen thơm, người khác lại chê hôi. Chẳng hạn như người chưa từng ăn sầu riêng thì chê sầu riêng hôi, còn người quen ăn sầu riêng thì thích, khen sầu riêng thơm. 

   Lỗ mũi cũng vậy. Khi ta đi qua những chỗ có hoa thơm, có mùi ngọt ngào thì ưa thích, còn đi qua những chỗ có mùi hôi thối thì ta không ưa. Như vậy, lỗ mũi của chúng ta nó chạy theo mùi hôi, nên ta mới cảm thấy khó chịu, bực bội. Đó là đứa giặc thứ ba. Mùi hôi thì ai cũng chán ghét, nhưng có những thứ hôi mà người ta vẫn thích, ví như các loại mắm tôm, mắm ruốc… Cái này chắc mọi người ở đây đều biết hết? Đi ngang mấy chỗ ủ mắm, eo ơi, nó hôi quá chừng, vậy mà đa số mọi người vẫn ghiền và thích cái mùi đó! Đối với người này là thơm, đối với người khác là hôi. Mùi hương là vậy, thế mà ta cứ khởi tâm phân biệt, rồi ưa thích và không ưa thích, sanh ra đủ thứ phiền toái.

   Vậy mùi sầu riêng thơm hay hôi mà người khen thơm, người chê hôi ? Thơm hôi tùy theo sở thích sai biệt của mỗi nguời, nó không cố định, không định được thơm là đúng hay hôi là đúng. Nếu chấp chặt vào đó mà tranh cãi thì sân hận dấy khởi, bao nhiêu thứ phiền não, khổ đau chất chồng, làm sao gần Niết Bàn được ?

    Ngày xưa, có vị Thiền sư miên mật tu hành suốt mười kiếp, nên nhân quả xấu không bao giờ chiêu cảm được Ngài. Nhà vua quá quý trọng, nên cúng dường tòa trầm hương cao cấp và cung phụng mọi nhu cầu cần thiết. Do nhu cầu vật chất quá sung mãn, làm cho Thiền sư bị động tâm. Một hôm, ông đi ngang qua một làng nướng nọ, mùi cầy tơ xông lên tạo ra sự hấp dẫn. Chút bất giác, Thiền sư khởi niệm thèm, do đó mà bị quả báo mụt ghẻ hành hạ đau nhức.

   Mười kiếp tu hành miên mật nên nghiệp xấu không có cơ hội hoành hành, chút bất giác do mùi thơm của các thức ăn làng nướng mà quả xấu trổ liền trong đời này. Như chúng ta đã biết, mọi sự dính mắc từ sự bám víu chấp trước, cho rằng hương thơm là tuyệt đỉnh. Tình yêu nam nữ sở dĩ phát triển mạnh mẽ, trước tiên là từ sự thấy sắc đẹp và kế đến là bị kích thích mùi thơm nước hoa do phái yếu khéo léo trang điểm, tạo nên sự hấp dẫn mùi vi thơm tho mà làm lung lạc đấng mày râu. Kế đến là giọng nói, tiếng cười, rồi đến sự xúc chạm êm ấm, mát mẻ, khoái lạc, làm cho người ta sống không thể thiếu nhau được.

   Chúng tôi ở Thường Chiếu, hay bị cái mùi khó chịu của chất ô nhiễm Vedan thả ra, hầu hết ai cũng bị viêm xoang, nghẹt mũi bởi chất độc hại này. Một số thầy chịu không nỗi cái mùi vị khó chịu đó, bèn tìm đến nơi khác để tu. Con người ta khi làm việc gì đâu có nghĩ hậu quả lâu dài mà chỉ biết cái lợi trước mắt, nên đã để lại biết bao nỗi khổ, niềm đau cho nhân loại.

    Ô nhiễm môi trường, hủy diệt sự sống của các loài khác, đất đai bị cằn cỗi, con người thời nay bệnh hoạn trầm trọng, bởi tham muốn lợi nhuận của một số người. Ngửi mùi thơm thì làm cho người ta say mê đắm đuối, dính mắc vào đó, nên chịu dài dài trong luân hồi sinh tử.

    Các mùi vị hôi hám, xú uế làm cho con người bệnh hoạn, khốn khổ, bởi các chất độc hại không được xử lý rõ ràng. Lòng tham con người như giếng sâu không đáy, thức ăn, thức uống bây giờ trở thành ổ bệnh, vì sử dụng hoá chất, mùi vị độc hại.

   Trong sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông soạn, có câu, “thường tham mùi lạ trăm thứ ngạt ngào, chẳng thích chân hương năm phần thanh tịnh”. Thường thì mũi thích mùi thơm hơn, như mùi thơm của các loài hoa, mùi thơm của thức ăn chiên nấu, xào nướng.

    Người tu mà tối ngày chỉ dính mắc vào ăn uống, rồi khen chê đủ thứ, cuộc sống mỗi ngày nhờ vào đàn na tín thí mà không biết hổ thẹn, cứ chạy theo mùi vị mà quên mất chân hương. Chân hương tức là hương đạo đức của người tu, nhờ giữ giới và tu hành nên gọi là giới-định-tuệ.

   Nhờ biết giữ giới nên sinh định, và biết tư duy, nghiền ngẫm, quán chiếu, nên phát sinh trí tuệ, do đó gọi là chân hương. Trong luật Sa Di, có một thầy tỳ kheo đi dạo quanh hồ sen, nghe mùi thơm ngào ngạt của hoa sen liền hít ngửi cho thỏa thích, vị thần giữ hồ sen liền hiện ra quở, “tại sao ông là người tu hành mà đi ngửi trộm hương thơm của hoa sen?”

   Vị tỳ kheo nghe nói vậy trong lòng rất hổ thẹn, nên đành ngậm miệng, không dám nói năng gì. Trong lúc đó, có người thế tục lội xuống hồ bức ngó, bẻ hoa, và còn làm cho sen ngã rạp. Vị tỳ kheo thấy thế liền hỏi, “tôi chỉ ngửi mùi thơm của hoa sen mà ông nói tôi trộm hương, còn người kia bức ngó, bẻ sen, sao ông không quở trách họ?”

   Vị thần bảo, “đó là người đời, không biết tội lỗi, nên họ mới làm như vậy, giống như người mặc chiếc áo đen, có bị dính thêm năm bảy dấu mực cũng khó thấy. Ông là bậc mô phạm cho trời, người, giống như người mặc áo trắng, chỉ một vết mực nhỏ cũng dễ thấy, nên tôi nhắc ông là có lý do”.

    Nói tóm lại, người tu muốn đạt đến an lạc, giải thoát, thì phải biết làm chủ từ ý nghĩ của mình, đừng cho nó chạy theo ngoại cảnh, đừng cho nó dính nhiễm từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân mới được. Trong sáu căn, ta chỉ nhiếp phục một căn cho được thuần thục, thì năm căn kia cũng không bị dính mắc. 

   Thơm tho quá làm cho con người dính mắc, luyến ái vào đó, mà phải chịu sinh tử không có ngày thôi dứt. Hôi thúi quá làm ô nhiễm đến an sinh sự sống, vì thiểu hiểu biết và không tin sâu nhân quả mà con người đã tán tận lương tâm đến thế.

    Thơm thì ưa, hôi thì ghét, đó là thói quen thâm căn cố đế của tất cả chúng sinh, nên người Phật tử chân chính phải ý thức được sự tác hại lớn lao do sáu căn bị dính nhiễm với sáu trần, làm ta không được an vui, giải thoát, cũng giống như những người bị nghiện ngập, khi thiếu nó thì rất khổ đau.

   Trong sáu căn, tuy căn mũi không phải là vai trò chính yếu trong việc tu hành, nhưng nó phần nào cũng ảnh hưởng đến đời sống tốt xấu của con người. Vậy chúng ta muốn an lạc, tự tại, giải thoát, thì không để cho mùi thơm, hôi chi phối. Khổ đau cho nhau thì không nên, và mình chỉ nói để mọi người sống với nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết.  

 
Previous
Next Post »